Đó là cách người dân thôn Duyên Trường, xã Duyên Thái, huyện Thường Tín, Hà Nội nói về món bánh dày Quán Gánh nổi tiếng bao đời nay tại vùng đất này.
Đặc trưng trong cách làm ra món bánh dày khiến thực khách ăn một lần sẽ nhớ đó chính là phải làm lúc nguyên liệu còn đang nóng bỏng tay, nhưng khi gói vào tấm lá dong xanh phải là lúc bánh đã nguội để chiếc bánh không bị dính.
Bánh dày Quán Gánh: Làm nóng, đóng nguội, Ẩm thực, banh day Quan Ganh, banh day, Quan Ganh, banh, nhan banh, dau xanh, do xanh, am thuc, mon ngon de lam, mon ngon
Lá dong tươi
Quán Gánh là tên cổ của Duyên Thái. Người già trong làng kể lại, có thể nơi đây xưa kia chính là quán trọ nghỉ chân của các bậc nho sĩ khi lều chõng từ các vùng miền về Kinh đô ứng thí qua các kì thi Hương, thi Hội, thi Đình...
Quán Gánh nằm trên Quốc lộ 1A, bây giờ sầm uất như khu vực nội thành. Nhà nhà làm bánh dày, nhiều người trở thành ông bà chủ lớn chuyên cung cấp bánh cho khách du lịch hoặc những đám giỗ, chạp, cưới, hỏi.
Đi qua Quán Gánh, ai cũng thấy choáng ngợp bởi suốt một bên đường xanh rì màu xanh của những gói bánh dày đang mời chào thực khách.
Chúng tôi có dịp đến tận nhà một người dân làm bánh dày khá lâu năm tại thôn Duyên Trường và được nhìn tận mắt toàn bộ quá trình để một chiếc bánh dày dẻo thơm ra đời.
Cả gia đình nhà ông Nguyễn Văn Hùng (55 tuổi) sống bằng nghề làm bánh dày hơn 30 năm nay. Mỗi ngày nhà ông sử dụng khoảng 30kg gạo nếp, riêng những mùa cưới, hỏi, lễ, tết có khi phải làm 2 đến 3 tạ gạo, thuê thêm cả chục nhân công để giã xôi, gói bánh từ tờ mờ sáng.
Chiếc bánh trắng, dẻo trước khi đến tay người mua có giá chưa đến 5 ngàn đồng nhưng phải qua ngót nghét 20 công đoạn. Từ chiều hôm trước, gạo, đỗ xanh đã được ngâm, lá dong xanh đã được rửa sạch, hong khô sẵn sàng. 3 giờ sáng hôm sau cả nhà đã phải dậy, người thổi xôi, người đánh đậu xanh, người viên nhân, người gấp lá. Công việc luôn phải thật khẩn trương để có bánh kịp cho phiên bán hàng từ 6 giờ sáng.
Bánh dày Quán Gánh: Làm nóng, đóng nguội, Ẩm thực, banh day Quan Ganh, banh day, Quan Ganh, banh, nhan banh, dau xanh, do xanh, am thuc, mon ngon de lam, mon ngon
Đậu xanh đã được chuẩn bị cho buổi làm bánh
Bánh dày Quán Gánh: Làm nóng, đóng nguội, Ẩm thực, banh day Quan Ganh, banh day, Quan Ganh, banh, nhan banh, dau xanh, do xanh, am thuc, mon ngon de lam, mon ngon
Từ 4 giờ sáng, công đoạn chuẩn bị viên nhân bánh đã sẵn sàng
Bánh dày Quán Gánh: Làm nóng, đóng nguội, Ẩm thực, banh day Quan Ganh, banh day, Quan Ganh, banh, nhan banh, dau xanh, do xanh, am thuc, mon ngon de lam, mon ngon
Bánh được làm khi nguyên liệu còn nóng, nhưng nhồi nhân xong phải hong gió cho nguội mới có thể gói
Bánh dày Quán Gánh: Làm nóng, đóng nguội, Ẩm thực, banh day Quan Ganh, banh day, Quan Ganh, banh, nhan banh, dau xanh, do xanh, am thuc, mon ngon de lam, mon ngon
Thu, con gái ông Hùng luôn tự hào với khách: Làm gì cũng chậm, nhưng gói bánh dày thì cực nhanh!
Bánh dày Quán Gánh: Làm nóng, đóng nguội, Ẩm thực, banh day Quan Ganh, banh day, Quan Ganh, banh, nhan banh, dau xanh, do xanh, am thuc, mon ngon de lam, mon ngon
Những vuông bánh mát mắt với màu xanh của lá dong, màu trắng của lạt tre và màu đỏ của chữ Song Hỷ
Nhân ngọt thì có đậu xanh, đường, chút dừa khô. Nhân mặn thì cho thêm chút mỡ phần, hạt tiêu, tất cả được cho vào một chiếc nồi lớn, dùng đôi đũa cả thật lớn, khuấy liên tục đến khi đậu xanh và các thành phần khác sánh mịn.
Bánh dày Quán Gánh bây giờ không phải giã bằng tay, xôi vừa đồ xong, cho xuống máy giã ngay để gạo dẻo, nhưng cũng cần hai người to khỏe xoay tấm vải lót xôi, canh chuẩn thời gian để giã cho đều. Đây cũng là lý do vì sao trong gian bếp giã xôi của tất cả những nhà làm bánh tại Quán Gánh bao giờ cũng có một chiếc đồng hồ rất lớn và chạy rất chuẩn xác.
Xôi sau khi giã mịn, người ta bắt đầu nhồi nhân đậu xanh. Bánh nhồi nhân xong trải đều xuống tấm nilon sạch, chờ cho khô, thoa mỡ, gói vào lá. Bánh chay làm đơn giản hơn, chỉ cần nặn tròn, thoa mỡ.
Bánh dày Quán Gánh: Làm nóng, đóng nguội, Ẩm thực, banh day Quan Ganh, banh day, Quan Ganh, banh, nhan banh, dau xanh, do xanh, am thuc, mon ngon de lam, mon ngon
Bánh dày Quán Gánh, ăn một lần là nhớ... - Ảnh: Thúy Hằng
Cái độc đáo, hấp dẫn của bánh dày Quán Gánh một phần ở hình thức gói bánh khi đến tay thực khách. 6 viên bánh xinh xắn, trắng tinh được xếp khéo léo trên những tàu lá dong xanh mát mắt, gói để vừa tầm đúng một khối vuông như chiếc bánh chưng. Bên ngoài tấm lá dong là đôi chiếc lạt tre trắng muốt thắt lại, trên đó cài thêm một mẩu giấy hồng in chữ Song Hỷ.
Chị Thu, 25 tuổi, con gái của ông Hùng tự hào khoe với khách, làm gì cũng chậm, trừ gói bánh. Thoăn thoắt dưới tay chị, những vuông bánh đều chằn chặn cứ thế xếp hàng.
Cầm gói bánh thơm trên tay, trước khi gỡ chiếc lạt ra, người ta phải nâng lên mũi, hít hà một lúc cho thấy mùi thơm của gạo, của lá lan tỏa.
Chiếc bánh vẫn còn âm ấm nóng, dẻo rất vừa độ, hòa với nhân đậu xanh bùi bùi, béo béo tạo nên hương vị khó nhầm lẫn với bất kể một món ăn nào khác. Người già thích bánh dày vì bánh mềm mà không dính, trẻ con thích bánh dày ở chỗ bánh ngon mà ăn lâu ngấy.
Không chỉ được làm trong các ngày Tết như xa xưa, bánh dày Quán Gánh giờ đây vượt qua khỏi địa phận Thường Tín, vào nội thành, đến các tỉnh thành lân cận để phục vụ trong các dịp ăn cưới, ăn hỏi.
Món bánh truyền thống làm từ gạo nếp, đỗ xanh, lá dong, hội tụ những tinh hoa của mùa màng, đồng rộng trở thành một món ngon con cháu muốn dâng lên bàn thờ ông bà tổ tiên như một cách hướng về cội nguồn thành kính...
Read more
Ðông Hồ - một cái tên làng quen thuộc, nằm bên bờ sông Ðuống, cách Hà nội khoảng 40km thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Từ lâu, đã đi vào cuộc sống tinh thần của mỗi người dân Việt Nam bằng những bức tranh dân gian nổi tiếng, đậm đà sắc thái dân tộc Làng tranh Ðông Hồ trước đây thường truy...ền nhau câu ca
"Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch có lề
Có ao tắm mát có nghề làm tranh".
Chẳng biết từ bao giờ đốt vàng mã đã là thói quen của người Việt. Người ta đốt vàng mã trong ngày giỗ tổ tiên ông bà, lập bàn thờ, giải hạn, chuyển nhà ... hay trong các dịp lễ tết nào, ngày rằm... như là một sự chăm lo cho những người đã khuất có một cuộc sống sung túc ở thế giới bên kia. Cũng kịp "chạy" theo thời buổi cơ chế thị trường, Làng Tranh Đông Hồ nổi tiếng cũng không là một ngoại lệ. Hầu như cả làng đổ xô vào làm hàng mã, cũng vốn là "mặt hàng" truyền thống trước đây. Thôi thì đủ loại: ngựa, mũ nón, đồng hồ, nhà lầu, xe máy... Giá cả tùy theo nhu cầu người đặt mua, khi mà tranh dân gian chẳng có mấy người say mê
Read more
Read more
Trên con đường nhỏ dẫn vào khu di tích lịch sử Nhà thờ đá Phát Diệm, Kim Sơn (Ninh Bình) bạn sẽ ngỡ ngàng khi nhìn thấy vô vàn túi xách, mũ, hộp, dép, xe thồ, lọ hoa, lẵng hoa… tất cả toàn bằng cói, loại vật liệu mà không một người Việt nào không biết đến…
Khi nền kinh tế bước vào thời kỳ hội nhập thì những làng nghề thủ công truyền thống như nghề dệt, đan cói cũng ít nhiều bị mai một. Với đầu ra cho các sản phẩm ấy bị thu hẹp, thì rất nhiều nghệ nhân đã không thể tiếp tục duy trì nghề truyền thống của dòng tộc và họ chuyển sang nhiều ngành nghề khác để kiếm kế sinh nhai. Nhưng may thay, ở Kim Sơn vẫn còn giữ được làng nghề truyền thống đã có từ gần 2 thế kỷ nay. Người dân Kim Sơn có đặc thù sống trong cái nôi làng nghề cói từ cách đây hàng trăm năm nên có đầy đủ tổ chất của một người thợ thủ công chân chính, một bàn tay khéo léo, sự nhạy bén, tính linh hoạt cao, sự nhanh nhạy và đam mê nghề nghiệp. Những tố chất này giúp cho họ đáp ứng được những đòi hỏi dù là khắt khe của cơ chế thị trường. Chính điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội đó đã tạo dựng nên nghề trồng cói, chế biến cói ở huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình nổi tiếng xa gần và được người dân tiêu dùng trong và ngoài nước rất ưa chuộng.

Hàng cói truyền thống ở đây nổi bật là chiếu cải, chiếu đậu, thảm, làn v.v… không chỉ tiêu thụ nội địa mà còn được các thị trường Liên Xô, Đông Âu ưa chuộng. Đến thập kỷ 90 do sự biến động của thị trường Đông Âu, hàng cói đã có bước đột biến chuyển đổi sang hướng sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ bao gồm: khay, hộp, đĩa, tách, túi xách, đồ nội thất vv…gồm nhiều chủng loại, kích thước, và hàng nghìn mẫu mã với kỹ thuật tinh xảo, đáp ứng được thị hiếu của thị trường Châu Âu, Châu Á, Châu Phi. Để có được một sản phẩm cói mỹ nghệ đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, kĩ thuật trồng và sản xuất cói của Kim Sơn cũng khá đặc biệt. Đó là cả một quy trình công phu, tỉ mỉ và chính xác ngay từ lúc trồng cói, thu hoạch cói, chọn cói, chẻ cói, phơi cói, nhuộm cói…cho đến khâu cuối cùng là đan và hoàn thiện sản phẩm. Điển hình như kỹ thuật sử dụng keo polyascera phun phủ lên bề mặt sản phẩm cói, vừa giúp định hình ổn định kiểu dáng công nghiệp, vừa nâng cao khả năng chống mốc, ẩm cho sản phẩm, nhất là trong quá trình vận chuyển qua hàng nghìn cây số đường biển trong quá trình xuất hàng ra nước ngoài. Nhờ đó mà sản phẩm cói mỹ nghệ của Kim Sơn luôn đảm bảo chất lượng khi tới tay người tiêu dùng, góp phần rất lớn trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Cho đến nay, sản phẩm cói mỹ nghệ Kim Sơn đã được xuất khẩu đến hơn 20 quốc gia và vùng lãnh thổ. Và sự thành công ấy có thể không chỉ dừng lại ở đây mà còn tiến xa hơn nữa. Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu sẽ còn nhiều khó khăn ảnh hưởng đến việc tiêu thụ các sản phẩm từ cói, đặc biệt là xuất khẩu. Bà con nông dân và các nghệ nhân làng cói có thể sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức đe dọa đến sự tồn tại và phát triển của nghề, nhưng với bản lĩnh và tình yêu vô cùng lớn đối với nghề qua thăng trầm hàng hàng trăm năm, bà con nơi đây vẫn son sắt một niềm tin sẽ iếp tục đưa nghề truyền thống này ngày một phát triển lớn mạnh. Vui lắm, mừng lắm trước thực tế này, nhưng vẫn còn đó nỗi băn khoăn là liệu bà con làng cói Kim Sơn nói riêng và các làng nghề khác ở Việt Nam nói chung có mai một nghề truyền thống của mình trước cuộc bão táp công nghệ và sự khắc nghiệt của thị trường? Phải chăng đã đến lúc cần sự hỗ trợ của Nhà nước để chung sức cùng bà con giữ gìn và phát huy các làng nghề truyền thống, bởi đó cũng là một nét văn hóa dân tộc?
Read more



Read more
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)